Đó là nguyên nhâncủa việc gia tăng số lưọng doanh nghiệp lắp ráp xe máy IKD va những vụ gian lận thương mại (ví dụ : 01chiếc xe máy sản xuất tại Honda- Dream II sản xuất tại Thái Lan bán với giá 1000- 1100 USD, trong đó tại VN bán với giá gần 2500 USD). Do giá xe máy ở VN quá cao nên khu vực nông thôn và miền núi (chiếm 80% dân số) tỷ lệ người có xe máy chỉ chiếm 1/15-1/20 so với các thành phố và đo thị lớn. Cũng chính vì vậy mà một mục tiêu quan trọng trước mắt của chiến ngành công nghiệp xe máy là phải tăng số lượng xe máy lưu hành rộng rãi trong đời sống nhân dân, tập trung sản xuất các loại xe máy trong nước có gia thành thấp, phù hợp với sức mua của người dân có thu nhập trung bình.
Chương Trình Nội Địa Hoá Và Những Kết Quả Ban Đầu
Cách đấy 10 năm, công nghệ chủ yếu lắp ráp dạng CKD (đơn giản), đến nay, công nghệ sản xuất đang từng bước phát triển. Nhà nước đã cấp giấy phép cho 04 công ty liên doanh, một công ty có vốn 100% nước ngoài (VMDP) và trên 50 doanh nghiệp sản xuất xe máy dạng IKD. Nhìn chung, hoạt động của doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất, lắp ráp xe máy đều có lãi, mặc dù có sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, với các doanh nghiệp lắp ráp IKD khác trong nước. Hiện tại, tổng số vốn các doanh nghiệp sản xuất xe máy ở VN vào khoảng 337,643 triệu USD, vốn pháp định là 142,35 triệu USD, đảm bảo lắp ráp khoảng 1,5 triệu xe máy / năm. Theo số liệu năm 1998 cho thấy, Honda VN lãi khoảng 18,154 triệu USD, trong đó bình quân mỗi xe lãi 222,27 USD mà vẫn đảm bảo hạ giá xuống con 24,7 triệu /chiếc (so với xe Nhật là 32 triệu ), tỷ lệ nội địa hoá trên 51% đối với Super Dream và Future. Hãng Suzuki lãi trong việc lắp ráp xe là 5,662 triệu USD, bình quân mỗi xe lãI khoảng 222, 24 USD.
Nhìn chung, đối với chương trình nội địa hoá của các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực sản xuất, và lắp ráp xe máy đều phải có giấy phép đầu tư, trong đó 5 năm đầu tiên nội địa hoá phải đạt từ 15-20% giá trị xe và nâng dần lên 50-60% từ 5 năm trở đi. Đó là chưa kể đến các doanh nghiệp sản xuất săm lốp, ắc qui và một số linh kiện khác như : giảm sóc, đồng hồ báo xăng, đèn , vành, bánh, nan hoa…Hiện nay, cả nước có khoảng 35 DN cơ khí FDI đang hoạt động sản xuất va cung cấp phụ tùng, linh kiện cho các cơ sở lắp ráp xe máy của Honda, Suzuki, VMEP… như công ty 756(Bộ quốc phòng ) cũng đã sản xuất được các chi tiết, phụ tùng xe máy như bulông, bánh răng hộp số, bánh răng truyền lực, bộ hơi xi lanh, piston, và các chi tiết chịu mài mòn khác; công ty cơ điện – hoá chất đã sản xuất được các loại bánh răng thẳng, nghiêng với d£ 350mm; các chi tiết trục với I£0,6kg; đồng thơI công ty còn sản xuất được các linh kiện cho lắp ráp xe máy TQ với giá rẻ như hộp xích trên, dưới giá 3,57 USD, đèo hàng trước giá 1,9 USD… Ngoài ra, còn phải kể tới 1 số sản phẩm của các công ty quang điện – điện tử-Bộ quốc phòng, nhà máy cơ khí 17 đã chế tạo và sản xuất được một só loại sản phẩm có tính năng kĩ thuật cao như phôi đúc áp lực cao, vỏ moayơ, nắp, chốt cố định , các loại phanh, hộp dầu phanh, nhà máy còn tiến hành sản xuất thử nghiệm cụm khung xe, ống xả, chắn bùn, chắn xích.
Tuy VN chỉ mới có 35 DN (Malaysia có khoảng 350 DN, TháI Lan 300-400 DN) nhưng đây là bước đầu góp một phần không nhỏ vào chiến lược nội địa hoá xe máy, để đưa ra thị trường những sản phẩm có chất lượng mà giá thành lại hạ.
Cho tới thời điểm hiện nay, trên toàn quốc có khoảng 48 DN được phép xây dựng dự án đầu tư dây chuyền lắp ráp xe máy dạng IKD. Tổng công suất đăng kí trong các hồ sơ của các chủ đầu tư đã lên tới 500.000 xe/năm với khoảng 113 chủng loại xe có nguồn gốc từ các nước asean, TQ, Hàn Quốc…Sản xuất xe máy theo hướng đi từ lắp ráp CKD, IKD rồi tăng dần tỷ lệ nội địa hoá và tiến tới tự chế tạo hoàn chỉnh là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với khả năng về vốn và trình độ công nghệ của các cơ sở trong nước . Người tiêu dùng có khả năng mua được xe máy với giá rẻ hơn so với các loại xe của DN FDI và được lựa chọn nhiều chủng loại theo thị hiếu của mình.